Loading...
Tôn giả Xá Lợi Phất – trí tuệ đệ nhất
23/02/2025 20:14

Tôn giả Xá Lợi Phất – trí tuệ đệ nhất

Thời Đức Phật còn tại thế, có nhiều vị đại đệ tử xuất sắc giúp truyền bá Giáo Pháp. Trong số đó, Ngài Xá Lợi Phất (Sāriputta) và Ngài Mục Kiền Liên (Mahā Moggallāna) là hai đại đệ tử đứng đầu Tăng đoàn. Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ xuất chúng, được Đức Phật tôn xưng là “Trưởng tử Như Lai” và “Tướng quân của Giáo Pháp”. Bên cạnh trí tuệ, Ngài còn là bậc hiền hòa, hiếu thảo, từ bi, khiêm tốn, nhẫn nại và luôn ghi nhớ ân nghĩa.
  1. Xuất thân
  • Ngài Xá Lợi Phất tên thật là Sariputta, sinh ra tại làng Upatissa, còn Mục Kiền Liên (Kolita) sinh ở làng Kolita.
  • Xuất thân từ gia tộc Bà-la-môn danh giá, thuộc giai cấp Bà-la-môn cao nhất thời bấy giờ.
  • Cha là Bắk-giả, một học giả Bà-la-môn có uy tín.
  • Mẹ là bà Sá-ri (Sári, Xá-lợi), sùng bái thần lửa và tuân theo truyền thống tế lễ Bà-la-môn.
  • Sinh ra tại Uất-tát-la (Upatissa), nay thuộc Bihar, Ấn Độ.
  • Gia đình giàu có, sống trong môi trường học thuật cao, tinh thông kinh điển Vệ-đà từ nhỏ.
  1. Tình bạn tri kỷ với Mục Kiền Liên
  • Cả hai xuất thân từ gia đình Bà-la-môn danh giá, có học vấn uyên thâm và là bạn thân từ nhỏ.

- Cùng theo học Sañjaya – một vị đạo sư nổi tiếng, nhưng không tìm thấy con đường giải thoát.

- Trong một lễ hội, cả hai cùng nhận ra sự vô thường của cuộc đời và quyết tâm tìm chân lý giải thoát.

- Họ nguyện chia sẻ với nhau bất kỳ giáo pháp nào tìm được.

- Một ngày, Xá Lợi Phất tình cờ gặp Trưởng lão Assaji – một vị đệ tử của Đức Phật. Ấn tượng bởi phong thái an tĩnh của vị khất sĩ, Ngài đến hỏi về Đạo.

- Assaji chỉ đọc một bài kệ ngắn về Duyên khởi: "Vạn vật từ duyên khởi, Đức Như Lai từng thuyết, Và rồi từ duyên diệt, Đại Đạo Sư đã truyền."

- Ngay khi nghe xong, Xá Lợi Phất chứng đắc quả vị Dự Lưu (nhập lưu). Quay về báo tin cho Mục Kiền Liên, Nghe xong bài kệ, Mục Kiền Liên cũng chứng quả Dự Lưu. Cả hai đến yết kiến Đức Phật và chính thức quy y tại tinh xá Trúc Lâm (Veluvana), thành Vương Xá (Rajagaha). Cả hai quyết định đến yết kiến Đức Phật.

- Trước khi đi, họ đến thuyết phục thầy cũ Sañjaya, nhưng ông từ chối vì không muốn từ bỏ địa vị của mình.

- 6 ngày sau, cả hai chứng A-la-hán, trở thành hai vị đại đệ tử xuất sắc nhất của Phật.

  1. Mối quan hệ với Đức Phật

- Luôn tinh tấn, trí huệ cao siêu, học hỏi nhanh.

- Thường được Phật giao giảng dạy Tăng chúng.

- Những lần gặp Phật, thể hiện sự khiêm nhường và trung thành tuyệt đối.

- Có nhiều cuộc đối thoại trí tuệ với Phật.

  1. Vai trò trong Tăng Đoàn

- Đứng đầu về trí tuệ trong Tăng chúng.

- Thường giảng dạy và khai thị.

- Khi Phật hội chuẩn tịnh giới lần đầu, giao Xá Lợi Phất quản lý Tăng chúng.

- Bảo vệ chánh pháp, được tôn xưng "Tướng Quân Chánh Pháp".

  1. Mối quan hệ với Tôn giả Mục Kiền Liên

- Tình bạn khắng khít, song hành trong việc hoằng pháp.

- Cùng nhau chứng thành A-la-hán sáu ngày sau khi quy y.

- Luôn tôn trọng và hỗ trợ nhau trong sứ mệnh chánh pháp.

  1. Các mẫu chuyện quan trọng

6.1. Khi hay tin Đức Phật sắp Niết-bàn

- Khi hay tin Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, Xá Lợi Phất vô cùng xúc động.

- Ngài bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn, con biết rằng nhân duyên của con ở cõi này đã hoàn tất. Xin được nhập Niết-bàn trước Ngài."

- Đức Phật chấp thuận, Ngài trở về quê hương lần cuối để giảng dạy cho mẹ.

6.2. Mẫu chuyện quy y cho mẹ

- Trước khi nhập Niết-bàn, Xá Lợi Phất trở về nhà thăm mẹ.

- Mẹ của Ngài, bà Sá-ri, vốn là người Bà-la-môn sùng bái thần lửa và theo truyền thống tế lễ Bà-la-môn.

- Trước khi nhập Niết Bàn, Tôn giả Xá Lợi Phất trở về quê thăm mẹ là bà Sari, người vẫn chưa tin sâu vào Phật Pháp. Dù bệnh nặng, Ngài vẫn thuyết pháp, giúp mẹ giác ngộ và chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi ấy, Đại Phạm Thiên cùng chư Thiên giáng xuống đảnh lễ Ngài, khiến bà Sari kinh ngạc. Tôn giả giải thích rằng Phật Pháp là tối thượng, ngay cả chư Thiên cũng kính ngưỡng bậc Thánh nhân.

6.3 Góp phần xây dựng tinh xá Kỳ Viên

- Khi trưởng giả Cấp Cô Độc phát tâm cúng dường khu vườn của Thái tử Kỳ Đà tại thành Xá Vệ để xây dựng tinh xá Kỳ Viên, Đức Phật đã giao cho Xá Lợi Phất hỗ trợ việc tổ chức.

- Tôn giả đã cùng các vị đệ tử khác giám sát việc xây dựng, đảm bảo tuân theo các nguyên tắc của Tăng đoàn.

- Sau khi hoàn thành, tinh xá Kỳ Viên trở thành trung tâm hoằng pháp quan trọng, nơi Phật và các đại đệ tử thường trú và giảng pháp.

  1. Những đạo hạnh cao quý của Tôn giả Xá Lợi Phất

- Trí tuệ siêu việt: Luôn đi đầu trong việc giảng giải giáo pháp sâu sắc, giúp nhiều đệ tử giác ngộ.

- Khiêm nhường và tôn kính Phật: Dù được tôn xưng là bậc trí tuệ đệ nhất, Ngài luôn giữ tâm cung kính đối với Đức Phật và các bậc trưởng thượng.

- Từ bi rộng lớn: Luôn tận tụy hướng dẫn đệ tử, cảm hóa cả những người phản đối Phật giáo, kể cả mẹ mình.

- Nhẫn nhục và điềm đạm: Đối mặt với những lời phỉ báng, công kích, Ngài luôn giữ tâm bất động, không sân hận.

- Kỷ luật và mẫu mực: Là hình mẫu trong việc giữ giới luật, giúp ổn định và tổ chức tăng đoàn.

  1. Những bài kinh do Tôn giả Xá Lợi Phất thuyết giảng thay Đức Phật

- Kinh Đại Không (Mahāsuññata Sutta, MN 122): Giảng về sự thực hành thiền định và sự quan trọng của sống trong tịch tĩnh.

- Kinh Giảng Giới (Dhātu-vibhaṅga Sutta, MN 140): Phân tích về các yếu tố của thân tâm và con đường giác ngộ.

- Kinh Phân Biệt Nghiệp (Vibhaṅga Sutta, MN 18): Trình bày chi tiết về nghiệp và quả báo của nghiệp.

- Kinh Thừa Tự Pháp (Dhamma-dāyāda Sutta, MN 3): Nhấn mạnh việc thừa tự giáo pháp thay vì thừa tự vật chất.

- Kinh Lậu Tận (Aṅguttara Nikāya 9.7): Giải thích về sự đoạn tận các lậu hoặc để đạt giải thoát.

- Kinh Tám Nhân Duyên (Aṭṭhakaṇḍa Sutta, SN 14.1): Nói về tám nhân duyên đưa đến sự giác ngộ.

- Kinh Diệt Trừ Phiền Giận: Hướng dẫn phương pháp đối trị sân hận, giúp hành giả giữ tâm bình an.

  1. Cuối đời và Niết-bàn

- Ngài lâm bệnh nặng, biết rõ duyên của mình sắp hết.

- Trở về quê hương, nhập Niết-bàn tại nhà.

- Đệ tử và gia đình tổ chức lễ trà tỳ (hỏa thiêu), thu thập xá lợi.

- Tăng đoàn kính ngưỡng, cung thỉnh xá lợi về thờ tại nhiều nơi.

10. CHUYỆN TIỀN THÂN

Hai vị (Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên) tiếp tục luân hồi, nhiều lần gặp gỡ vị mà họ đã phát nguyện làm đệ tử – chính là Đức Phật Gotama. Trong nhiều kiếp, họ vun bồi thiện nghiệp, tu tập ba-la-mật, hun đúc mối quan hệ đạo tình. Đến kiếp chót, Đức Phật Gotama thành Phật, còn Sāriputta trở thành trưởng đệ tử của Ngài.

Một số chuyện tiền thân tiêu biểu:

Jātaka 11: Đức Bồ Tát là nai chúa dạy dỗ và hướng dẫn cho hai con phương cách lãnh đạo đoàn thể. Một nai con (Sāriputta) theo lời cha dạy và mang hưng thịnh đến cho đoàn nai của mình. Nai con kia (Devadatta) bất tuân lời cha dạy, đi theo đường hướng riêng, và cuối cùng hủy hoại đoàn nai của mình.

Jātaka 73: Đức Bồ Tát là một vị ẩn sĩ cứu mạng một hoàng tử quỷ quyệt (Devadatta) và ba thú vật khỏi một cơn lũ lụt. Ba thú vật này – rắn (Sāriputta), chuột (Moggallāna) và vẹt (Ānanda) - dâng vị ẩn sĩ các kho tàng quý báu được dấu kín để tỏ lòng biết ơn. Còn hoàng tử gian ác thì ganh ghét, đố kỵ nên tìm cách hành hình vị ẩn sĩ.

Jātaka 151: Đức Bồ Tát là vị vua đức độ và công bằng xứ Benares, còn Sāriputta là người đánh xe ngựa của vua. Ānanda cũng là một vị minh quân xứ Kosala, và Moggallāna là người đánh xe ngựa của vua. Một ngày nọ, hai xe ngựa chở hai vị vua chạm đầu nhau trên một con đường nhỏ hẹp, không đủ chỗ để vượt qua nhau. Sāriputta và Moggallāna đều không chịu để vua của mình phải lùi bước nên cùng so sánh giới đức của hai vị vua; vị nào là bậc giới đức toàn vẹn và cao cả hơn sẽ được nhường lối. Moggallāna nói rằng cách vua Kosala cai trị là lấy cứng rắn đối trị cứng rắn, lấy mềm mỏng đối trị mềm mỏng, tưởng thưởng người thiện và trừng phạt kẻ bất thiện. Sāriputta cho biết vua Benares lấy từ hòa đối trị oán giận, lấy thiện đối trị bất thiện, lấy bố thí dạy người tham lam, lấy sự thật hoán tỉnh người gian dối. Nghe những lời Sāriputta nói, vua Kosala và Moggallāna xuống xe và nhường lối cho vua Benares. Rồi Bồ Tát giảng giải về giới đức và khuyên nhủ Ānanda hãy nghe theo lời ấy.

Jātaka 316: Đức Bồ Tát là một con thỏ rừng tri thức giảng dạy về giới đức và hạnh bố thí cho một con khỉ (Sāriputta), một con chó rừng (Moggallāna) và một con rái cá (Ānanda). Khi vua trời Đế Thích (Sakka) giả dạng thành một người bà-la-môn giáo đói khát để thử thách quyết tâm của thỏ rừng, Bồ Tát sẵn sàng nhảy vào lửa, thiêu thân để cung cấp cho người bà-la-môn một bữa ăn.

Jātaka 438: Đức Bồ Tát là một con gà gô từng được nghe và thông hiểu Kinh Vệ Đà nên giảng giải kinh này lại cho các thanh niên bà-la-môn khi họ đau khổ than khóc vì thầy của mình qua đời. Một du sĩ độc ác (Devadatta) giết Bồ Tát để ăn thịt. Sư tử (Sāriputta) và mãnh hổ (Moggallāna), là bạn của Bồ Tát và cũng từng được nghe Bồ Tát giảng giải những điều thiện lành và luật nhân quả. Vào ngày Bồ tát bị thảm sát, sư tử gọi mãnh hổ cùng đến viếng bạn. Mãnh hổ đến trước, và khi nhìn thấy vài mảnh lông của gà gô trong mớ râu tóc của du sĩ liền biết được hành động dã man tàn ác của du sĩ. Kinh hãi trước mãnh hổ, du sĩ dối trá chối tội. Mãnh hổ tha du sĩ đến trước sư tử và kể lại sự việc. Bấy giờ du sĩ mới nhận tội. Vì du sĩ giờ đây chịu nói sự thật, sư tử định tha thứ và thả du sĩ. Nhưng mãnh hổ, tức giận vì tội ác lẫn sự gian dối của du sĩ, xé xác du sĩ và vứt xuống hố.

Jātaka 472: Đức Bồ Tát là Hoàng tử Māpaduman đức hạnh bị người mẹ kế hãm hại và vu khống, vì Ngài đã từ chối những quyến rũ vô hạnh của bà. Tin lời bà, vua cha truyền lệnh xô Bồ Tát từ vách núi xuống vực thẳm. Thế nhưng vị thần núi (Sāriputta) đã đỡ Bồ Tát trước khi chạm đất và mang Ngài đến nơi an lành.

Jātaka 509: Đức Bồ Tát là con trai trưởng của vị tế sư xứ Benares. Tế sư là bạn đồng môn thân thiết của nhà vua. Vì vua không có con nên muốn phong cho Bồ Tát làm thái tử, sau này sẽ lên ngôi cai trị Benares. Tuy nhiên, do sớm nhận thức được những phù du giả tạm và đau khổ hiểm nguy của đời thế tục nên Bồ Tát từ chối ngai vàng, xuất gia sống đời ẩn sĩ phạm hạnh để tìm con đường giải thoát cao thượng. Không bao lâu sau ba vị hoàng đệ cũng lần lượt theo bước hoàng huynh – Đức Bồ Tát – xuất gia tu hành và sống đời ẩn sĩ. Hoàng đệ lớn nhất là tiền thân của Sāriputta, kế đó là Moggallāna, và cuối cùng là Anuruddha.

Biên soạn: Thích Lệ Ngôn, 23/2/2025, Ân Thọ Tự

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tôn giả Mục Kiền Liên - thần thông đệ nhất
09/03/2025
Tôn giả Mục Kiền Liên - thần thông đệ nhất
Tôn giả Mục Kiền Liên là một trong hai đại đệ tử thần thông bậc nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Tôn giả Xá Lợi Phất. Ngài nổi tiếng với lòng hiếu thảo, trí tuệ và thần thông quảng đại. Những câu chuyện về Ngài vẫn được truyền tụng trong Phật giáo, đặc biệt là sự tích cứu mẹ khỏi địa ngục và cứu dòng họ Thích Ca. Qua bài giảng này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về cuộc đời, công hạnh và những mẫu chuyện quan trọng liên quan đến Ngài.
Thông báo về một số vấn đề Hội thi giáo lý Phật tử Long An 2024
25/12/2024
Thông báo về một số vấn đề Hội thi giáo lý Phật tử Long An 2024
Thông báo của Ban Hoằng pháp tỉnh
Đề cương phần tự luận hội thi giáo lý Phật tử tỉnh Long An 2024
14/12/2024
Đề cương phần tự luận hội thi giáo lý Phật tử tỉnh Long An 2024
Đề cương phần giáo lý tự luận
Đề cương ôn thi hội thi giáo lý tỉnh Long An năm 2024
02/12/2024
Đề cương ôn thi hội thi giáo lý tỉnh Long An năm 2024
Quý Phật tử dowload file ôn thi
Tu sĩ và nông dân
07/07/2024
Tu sĩ và nông dân
Có rất nhiều lời nhận xét theo hướng tiêu cực trên các trang mạng xã hội, mỗi khi Phật giáo dậy sóng một vài sự việc không đáng xảy ra trong nếp sống tu tập. Trong hàng loạt lời chửi bới, la ó, nguyền rủa đó, ý kiến được nhiều người nghĩ đến nhất là những vị tu sĩ đều là ăn bám xã hội, ở ngoài không làm được gì nên mới vào chùa đi tu, nhác làm ăn nên mới vào chùa… Vì trong ấn tượng của họ, màu áo nâu sòng thường xuất hiện trong các đám ma, ếm bùa, trục vong, làm những trò mê tín dị đoan. Còn những lúc quý Thầy đi làm Phật sự, làm từ thiện, thuyết pháp… thì họ lại bỏ mặc, họ không thấy được những điều đó. Trong kho tàng kinh điển mà đức Phật để lại, có một bài kinh liên quan đến vấn đề trên, đó là bài kinh Canh Điền, số 98 trong tập Tạp A-hàm.
Rắn thần Naga trong văn hóa Phật giáo
30/05/2024
Rắn thần Naga trong văn hóa Phật giáo
NSGN - Naga, gốc tiếng Phạn, chỉ một vị thần hay một sinh vật có hình dạng là con rắn mang bành chúa được thấy trước hết trong truyền thống văn hóa Hindu và sau đó rất phổ biến trong kinh văn, trong Phật thoại và trong nghệ thuật tạo hình Phật giáo ở hầu hết các quốc gia châu Á. Trong ngữ cảnh văn hóa Hán, Naga được phiên âm là Na-già, được đồng nhất với rồng/ long và trong từng tọa độ địa lý - lịch sử, nó lại tích hợp với những tín niệm bản xứ để trở thành những linh vật/ linh thần hàm chứa nhiều đặc điểm và tính chất phồn tạp khó có thể nói cho cùng. Ở bài viết này, chỉ đề cập đến những gì chính yếu nhất cốt để có hiểu biết ít nhiều về Naga trong văn hóa Phật giáo.